Nữ Tướng Tinh

Trùng Sinh Chi Nữ Tướng Tinh – Chương 126

ÁNH TRĂNG (HẠ)

Hòa Yến trước đây chưa bao giờ nghĩ rằng, nhân sinh này lại có lúc khó khăn đến vậy, khó đến mức một bước đi về phía trước cũng không thể nhấc nổi.

Đã lâu rồi nàng không nhìn thấy ánh trăng.

Từ sau khi mắt nàng không còn nhìn thấy, nàng sống một cách mơ mơ hồ hồ. Hứa Chi Hằng an ủi nàng, nói rằng sẽ ở bên cạnh nàng mãi mãi, Hòa Yến cũng cười mà đáp “được.” Nhưng dù có tỏ ra bình tĩnh đến đâu, trong lòng nàng vẫn là một mảnh mờ mịt và sợ hãi. Cả đời nàng đã đối mặt với rất nhiều khốn cảnh, đa phần những lúc đó chỉ dựa vào một hơi thở mà đứng dậy, tự nhủ với mình rằng chỉ cần vượt qua một bước này là được. Cứ thế, không biết tự bao giờ, khi ngoảnh đầu nhìn lại, nàng đã vượt qua biết bao chặng đường.

Chỉ có một bước hiện tại này, nàng không thể bước qua, cũng không biết phải bước thế nào.

Không còn là Phi Hồng tướng quân mà đã trở thành Hứa đại nãi nãi, Hòa Yến giờ đây cũng chỉ là một nữ tử bình thường. Một nữ tử bình thường đột nhiên bị mù hai mắt, tuy rằng phu quân vẫn đối xử tốt với nàng, nhưng sự tốt đẹp ấy tựa như trăng trong gương, hoa trong nước, đẹp nhưng hư ảo. Nàng không cảm nhận được.

Tối Thất Tịch, nàng ngồi trong phủ đến tận khuya cũng không đợi được Hứa Chi Hằng trở về. Vốn tưởng rằng hắn có việc trong triều, đến hôm sau mới biết, đêm qua hắn cùng Hạ Uyển Như đi dạo hội chùa. Nàng lần mò ngồi xuống bên cửa sổ, lặng lẽ nghe bọn thị nữ bên ngoài tán gẫu.

“Hôm qua đại gia với phu nhân cãi nhau, ồn ào đến mức lão gia cũng biết. Chủ tử tâm tình không vui, xúi quẩy chính là bọn hạ nhân chúng ta, tất cả chẳng phải là vì vị ở Đông viện đó sao?”

“Ta thấy đại gia đúng là quá mềm lòng. Vị ở Đông viện bây giờ là một người mù, đại nãi nãi của Hứa gia chúng ta sao có thể là một người mù được? Chẳng phải là để thiên hạ cười chê sao? Phu nhân mấy hôm nay đều từ chối lời mời dự yến tiệc bên ngoài, chỉ vì sợ người ta hỏi đến.”

Có một tiểu nha hoàn không nhịn được, lên tiếng bênh vực nàng: “Đại nãi nãi đâu phải sinh ra đã mù, đột nhiên trở nên như vậy, đã rất đáng thương rồi.”

“Đáng thương? Nàng ta có gì đáng thương? Dù có mù, nàng ta vẫn có thể ở trong phủ ngày ngày được người hầu hạ, ít nhất vẫn không thiếu ăn thiếu mặc. Có khác gì với sủng vật đâu chứ? Đáng thương phải là đại gia mới đúng! Tuổi còn trẻ mà đã phải trói buộc cả đời với một kẻ mù! Đại gia chúng ta tài học vô song, muốn tìm nữ nhân thế nào mà chẳng được? Cớ gì phải vướng vào một người như thế?”

“Đúng! Đại gia mới đáng thương!”

Những lời đó như những lưỡi câu sắc nhọn, từng câu từng chữ móc vào tim nàng, khiến lòng nàng đau đớn máu tươi đầm đìa.

Đêm ấy, nàng ngồi trong phòng chờ Hứa Chi Hằng trở về, nói với hắn: “Chúng ta hòa ly đi.”

Hứa Chi Hằng ngẩn ra, ôn hòa hỏi lại: “Sao lại nói những lời này?”

“Hoặc chàng hưu ta cũng được.” Nàng không thích vòng vo, chỉ nói thẳng: “Hiện giờ ta đã không nhìn thấy nữa, không cần thiết phải liên lụy đến chàng.”

“Chúng ta là phu thê.” Hứa Chi Hằng nắm lấy tay nàng nói: “Đừng nhắc lại những lời này nữa, nghỉ ngơi sớm đi.”

Hắn chuyển hướng câu chuyện, nhưng không hề phủ nhận sự “liên lụy” mà Hòa Yến đã nói.

Lòng Hòa Yến dần trầm xuống.

Từ đó về sau, mỗi ngày nàng đều trải qua một cuộc sống cơm dâng tận miệng áo mặc tận tay nhưng lại thường xuyên nghe thấy những lời mỉa mai của gia nhân trong phủ. Hứa phu nhân khi nói chuyện với nàng lời nói cũng kẹp dao giấu kiếm, lời trong lời ngoài đều ám chỉ rằng nàng là gánh nặng của Hứa gia.

Hứa Chi Hằng vẫn đối xử với nàng rất ôn nhu, nhưng ngoài sự ôn nhu đó ra thì chẳng còn gì khác.

Hòa Yến cảm thấy vô cùng mệt mỏi.

Nàng như đang bước đi trên một con đường đêm tối tăm, xung quanh không có ai khác. Nàng không nhìn thấy ánh sáng phía trước, phía sau cũng không có đường lui. Nàng không biết đến khi nào mới đi đến điểm cuối cùng, kết thúc cuộc sống đầy giày vò này.

Vài ngày trước Trung thu, nàng nói với Hứa Chi Hằng: “Ta nghe nói trên núi Liên Tuyết có chùa Ngọc Hoa, trong chùa có một cây Tiên Nhân rất linh thiêng. Đến Trung thu, chúng ta có thể lên núi được không? Ta muốn treo dải lụa lên cây để cầu nguyện, biết đâu hai mắt có thể chữa khỏi.”

Kể từ khi hai mắt bị mù nàng chưa bao giờ đưa ra yêu cầu gì với Hứa Chi Hằng. Hắn ngạc nhiên trong chốc lát, cuối cùng vẫn đồng ý: “Được.”

Có lẽ khi vận rủi đeo bám, ngay cả uống nước cũng mắc nghẹn. Những năm trước Trung thu đều là ngày trời quang mây tạnh, vậy mà năm nay trời lại đổ mưa mấy ngày liền không dứt. Khi xe ngựa lên đến núi, sắc trời âm trầm đến mức đáng sợ, chiều hôm đó không thể xuống núi được, có lẽ phải ở lại trên núi một đêm.

Hứa Chi Hằng dìu nàng vào chùa bái lễ, sau đó một vị tăng nhân đặt vào tay nàng một dải lụa đỏ, nói cho nàng biết vị trí của cây Tiên Nhân ở sau chùa. Hòa Yến vuốt ve dải lụa, nhẹ giọng cảm tạ.

Vị tăng nhân chắp tay, giọng hiền hòa nói: “Giả sử trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo ra cũng không mất đi. Khi nhân duyên hội tụ, quả báo sẽ tự đến.”

Nàng không hiểu kinh Phật, vừa định hỏi thêm thì đối phương đã rời đi.

Mưa vẫn chưa ngừng, Hứa Chi Hằng đưa nàng đến chỗ cây Tiên Nhân.

Dưới gốc cây có bàn đá ghế đá, dành cho khách hành hương muốn viết điều ước trước khi treo lên. Hứa Chi Hằng giúp nàng trải dải lụa ra, đặt bút vào tay nàng nói: “Viết đi.”

Hòa Yến dựa theo cảm giác, chậm rãi viết: Hy vọng có thể nhìn thấy ánh trăng lần nữa.

Không cần nhìn cũng biết, nét chữ chắc chắn xiêu xiêu vẹo vẹo thảm không nỡ nhìn.

Sau khi viết xong, nàng cẩn thận đưa dải lụa đỏ cho Hứa Chi Hằng để hắn giúp nàng treo lên cây Tiên Nhân. Nhưng vì Hòa Yến không thể nhìn thấy nên nàng cũng không biết rằng, phu quân của mình chỉ đứng lên tùy tiện treo dải lụa lên một nhánh cây cạnh khuỷu tay. Hắn thậm chí còn lười buộc lại, chỉ tùy ý vắt lên đó. Nhánh cây trơ trọi không có tán lá che mưa, chỉ trong chốc lát, dải lụa đã bị nước mưa thấm ướt, nét chữ trên đó nhanh chóng nhòe nhoẹ, trở thành một vệt mực loang lổ, không thể nhận ra đã viết cái gì.

“Đi thôi.” Hứa Chi Hằng bước đến đỡ nàng rời đi.

“Ầm—” Một tiếng sấm vang lên, theo sau là một cơn gió lạnh quét qua, làm cành cây rung lên xào xạc. Dải lụa đỏ không được buộc chặt nên bị gió cuốn rơi xuống, rơi vào vũng nước đọng, lấm lem bùn đất.

Hòa Yến như có linh cảm, lo lắng hỏi: “Gió mạnh như vậy, có làm dải lụa bay mất không?”

“Sao có thể chứ?” Hứa Chi Hằng cười trấn an: “Buộc rất chặt rồi.” Nói xong, hắn giống như không nhìn thấy gì cả, thản nhiên bước qua dải lụa dưới chân.

……

Mưa vẫn chưa có dấu hiệu ngừng, đêm nay họ không thể không ngủ lại trên núi.

Hứa Chi Hằng đã đi tìm đại sư của chùa Ngọc Hoa bàn luận kinh pháp, lúc này đã chập tối, trong phòng đã thắp đèn, Hòa Yến lặng lẽ ngồi đó.

Đáng ra giờ này nàng đã nên lên giường nghỉ ngơi — một người mù, ngoài ăn uống và ngủ ra thì còn có thể làm gì khác? Nhưng đêm nay tiếng mưa rơi lác đác, nàng không ngủ được, cũng không biết hiện tại đã là canh giờ nào, nàng gọi tên hai thị nữ nhưng không ai đáp lại, nàng đành men theo tường chậm rãi bước ra ngoài, định đi kêu người.

Vừa mới đến ngạch cửa, nàng liền nghe thấy hai thị nữ đang trò chuyện.

“Vừa nãy hình như nghe thấy đại nãi nãi gọi người?”

“Có sao? Gọi thì cứ gọi, mặc kệ đi, trễ thế này rồi còn gọi làm gì. Đã là người mù rồi còn muốn lăn lộn người khác, thật sự nghĩ mình là đại nãi nãi chắc?”

Hòa Yến sững sờ.

Hai thị nữ này vốn không phải thị nữ thiếp thân của nàng mà là người trong viện của Hứa Chi Hằng. Ngày thường ôn nhu dịu dàng, lại vì Hứa Chi Hằng nên trước nay hành xử với nàng luôn rất kính cẩn, vậy mà không ngờ ở sau lưng lại nói nàng như thế.

“Nếu hôm nay không phải vì nàng ta muốn lên núi, chúng ta đâu phải ở đây qua Trung thu. Bên ngoài trời còn mưa mãi không dứt, thật xui xẻo. Đại gia đúng thật là quá nhân từ, mang theo của nợ này mà cũng không thấy phiền.”

“Ngươi chẳng lẽ còn không rõ tính tình của đại gia sao? Mặt ngoài tuy không giận nhưng trong lòng chắc chắn có khúc mắc. Hiện tại Hứa gia chúng ta đã trở thành trò cười của cả kinh thành. Đại gia xưa nay tâm cao khí ngạo, trong lòng nhất định là rất khó chịu. Nếu ta là nàng ta, ta đã sớm dùng một sợi dây treo cổ rồi, đỡ phải liên lụy đến người khác.”

“Suỵt! Lời này cũng có thể nói bậy sao!”

Nha hoàn kia chẳng để tâm nói tiếp: “Vốn chính là như vậy, nàng ta khác gì một sủng vật chứ, mỗi ngày chỉ chờ người ta mang thức ăn tới, ăn no rồi ngủ, suốt ngày được người hầu hạ. Đã không thể ra khỏi phủ, cũng chẳng nhìn thấy gì, sống những ngày tháng vô vị như vậy, một hai năm còn đỡ, nhưng nếu cả đời cứ như thế thì sống còn ý nghĩa gì chứ? Chi bằng chết sớm giải thoát sớm, may ra kiếp sau có thể đầu thai vào một gia đình tốt, có thể lại nhìn thấy ánh sáng.”

“Đừng nói nữa, bên ngoài có nước nóng, chúng ta ra lấy chút nước nóng về đi.”

Tiếng bước chân dần xa.

Hòa Yến tựa lưng vào cửa, chậm rãi ngồi bệt xuống.

Đúng vậy, một hai năm còn có thể chịu đựng, nhưng nếu cả đời đều như vậy, sống còn có ý nghĩa gì?

Thị nữ trong viện chủ tử, ai được chủ tử coi trọng thì tất nhiên sẽ không dám khinh thường người đó. Hai người này có thể thản nhiên bàn luận về nàng như vậy, chứng tỏ Hứa Chi Hằng ở trong phòng không hề giống như bộ dáng trước mặt nàng, tỏ ra không oán không hối hận.

Nhưng trên đời này, có mấy ai có thể thực sự không oán không hối hận đây?

Hòa Yến không biết trong phòng có đang thắp đèn hay không, đối với nàng mà nói, đâu đâu cũng chỉ là một mảng tối đen. Đột nhiên, một cảm giác tuyệt vọng trào dâng trong lòng.

Thuở nhỏ luyện võ, khi lớn vào thư quán đọc sách, sau này ra chiến trường tranh giành quân công, cả đời nàng đều dốc sức vì người khác. Thật vất vả mới có thể tháo xuống lớp mặt nạ, cứ tưởng rằng hết thảy có thể bắt đầu lại từ đầu, vậy mà ngay vào lúc này nàng lại rơi vào bóng tối, hơn nữa cả cuộc đời này đều sẽ bị nhốt trong một tòa nhà bốn bức tường, từng bước đi đều phải có người theo sát.

Sự tuyệt vọng của con người không phải chỉ tích tụ trong một sớm một chiều. Những chuyện nhỏ nhặt thường ngày như tằm ăn lá, từng chút từng chút một bào mòn nhiệt huyết đến cạn kiệt, để rồi sự thất vọng nặng nề từng tầng một chất chồng, đến cuối cùng một ngọn cỏ rơi xuống cũng đủ để nhấn chìm hy vọng xuống đáy nước.

Tuyệt vọng bao trùm lấy nàng.

Hòa Yến đỡ khung cửa đứng dậy.

Trong phòng có một chiếc đai lưng dư ra của y phục, nàng cầm lấy rồi vớ đại một kiện ngoại bào phủ lên người, nắm lấy cây gậy trúc nàng đã dùng từ khi bị mù, run rẩy bước ra khỏi cửa.

Ngôi chùa trên núi vốn ít người, hiện giờ trời tối lại có mưa, các tăng nhân đã sớm tập trung ở Phật đường. Nàng cứ thế bước đi một cách vô định, vậy mà lại không đụng phải bất kỳ ai.

Ít nhiều nhờ những năm tháng tòng quân lúc niên thiếu mà nàng miễn cưỡng rèn được thói quen ghi nhớ đường đi một cách kinh ngạc. Nàng vẫn còn nhớ lúc lên núi Hứa Chi Hằng từng nói với nàng ở bìa rừng cách chùa không xa có một thác nước, dòng nước đổ xuống như chuỗi ngọc rơi vào mâm, cảnh sắc cực kỳ tráng lệ.

Có núi, có nước, có cây, cũng xem như không tệ. Đáng tiếc đêm nay trời mưa, không có ánh trăng mà nàng thích.

Một người mù đi ra ngoài, dù thế nào cũng không tiện, huống hồ còn là trên đường núi lầy lội. Nàng không biết mình đã ngã bao nhiêu lần, bao nhiêu lần bị đá vấp té. Chỉ cảm thấy quần áo cả người ướt đẫm, búi tóc tán loạn. Đến cuối cùng mệt đến mức thở hồng hộc, cũng không biết bản thân đã đi đến nơi nào.

Hòa Yến bước tiếp thì lại ngã nhào trước một gốc cây, đầu đập mạnh vào thân cây. Nàng đưa tay sờ soạng, gốc cây này rất lớn, chắc hẳn là một cây cổ thụ.

Thác nước trong khu rừng sợ là không thể tìm thấy được rồi, vậy thì ở đây cũng được. Trước nay nàng cũng không quá để tâm ngoại vật, Hòa Yến phí sức một lúc lâu mới dọn tới được một tảng đá.

Sức cùng lực kiệt, nàng ngồi xuống trên tảng đá.

Mưa đã dần nhỏ lại, từng hạt mưa li ti rơi xuống người. Nữ tử trẻ tuổi ngửa đầu nhìn lên không trung, như thể có thể nhìn thấy ánh trăng vậy, chỉ có nước mưa lặng lẽ chảy xuống gò má, nàng đưa tay lau đi nước trên mặt.

“Chớ làm con thuyền trên sông, cũng chớ làm ánh trăng nơi dòng nước.”

“Thuyền chở người chia ly, trăng chiếu kẻ biệt ly.”

* “莫作江上舟,莫作江上月。”

  “载人别离,月照人离别。”

*Bài thơ này được sưu tập trong “Tăng Quảng Hiền Văn” (增广贤文), một tuyển tập câu danh ngôn, thơ văn cổ trước thời Minh, chủ yếu về cách đối nhân xử thế và ứng xử trong cuộc sống.

“Tăng Quảng Hiền Văn” còn có tên gọi khác là “Tích Thời Hiền Văn” (昔时贤文) hay “Cổ Kim Hiền Văn” (古今贤文), là một quyển sách vỡ lòng cho trẻ nhỏ, được biên soạn vào thời nhà Minh. (Nguồn Baidu)

Đối với cõi đời này nàng cũng đã không còn gì lưu luyến. Tiếc nuối duy nhất chính là đêm nay không có trăng.

Hòa Yến chậm rãi đứng dậy, đưa tay chạm vào sợi vải bên cạnh. Sợi vải đã được buộc lên cây rất chặt, nàng kéo thử một chút, khá chắc chắn, hẳn là sẽ không đứt.

Nàng giơ chân đá văng tảng đá.

Sợi vải bị xoắn lại thành dây thừng bất ngờ đứt đoạn.

Hòa Yến không kịp phản ứng, ngã lăn trên mặt đất.

Bùn đất văng tung tóe khắp người nàng.

Nàng ngơ ngẩn trong giây lát, đột nhiên nhận ra — Sợi vải đã đứt rồi.

Vậy mà lại đứt rồi?

Trong nháy mắt trong lòng nàng dâng lên nỗi ấm ức và chua xót không thể kìm chế. Cổ họng nghẹn lại trong giây lát, tiếp đó khẽ giọng nức nở, cuối cùng gục xuống đất òa lên khóc lớn.

Hòa Yến rất ít khi rơi nước mắt.

Một tướng quân mà rơi nước mắt sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí. Trên chiến trường, nàng luôn phải giữ thần sắc tự tin, tinh thần sáng láng, như thể không có bất kỳ ai hay chuyện gì có thể ảnh hưởng đến phán đoán của nàng. Đến khi không còn làm tướng quân nữa, muốn khóc lại cảm thấy bản thân thật quá yếu đuối.

Nhưng con người luôn có lúc yếu lòng. Bị lạnh nhạt, nàng có thể nhịn, khi bị mù nàng cũng có thể nhịn, khi nghe thị nữ trào phúng chế nhạo nàng vẫn có thể nhẫn nhịn, thậm chí khi bị bà mẫu ám chỉ là kẻ kéo chân nàng cũng vẫn có thể nhịn.

Nhưng lúc này ngay cả muốn chết cũng không thành, mảnh vải cũng đứt đoạn thì nàng thực sự không nhịn được nữa.

Nước mắt nóng hổi, từng giọt từng giọt lăn xuống theo gò má, thấm vào lớp bùn đất dưới thân, cũng phân không rõ đâu là nước mưa đâu là nước mắt của nàng.

Nàng khóc đến xé gan xé ruột, bỗng nhiên nghe thấy một giọng nói xa lạ vang lên.

Là giọng của một nam tử, trong gió mưa, giọng nói trầm thấp dễ nghe, mang theo chút mất kiên nhẫn: “Ngươi khóc cái gì?”

Tiếng khóc của Hòa Yến lập tức im bặt.

Tiêu Giác nhìn nữ tử trước mắt.

Đây là một nữ tử đang muốn tìm chết, cả người chật vật. Nàng mặc áo trong màu trắng nhưng lại khoác bên ngoài ngoại bào màu đỏ, thắt lưng cũng buộc ngược. Có lẽ trên đường đã ngã không ít lần, y phục rách vài chỗ. Khuôn mặt nàng cũng lấm lem bùn đất như một con mèo hoang.

Tiêu Giác vốn ưa sạch sẽ, cảnh tượng này thật sự khiến hắn chướng mắt. Cuối cùng hắn không nhịn được mà lấy ra một chiếc khăn trắng, đưa qua.

Nhưng nữ nhân kia không nhận mà lại lập tức bày ra thế phòng bị hỏi: “Ngươi là ai?”

Hắn ngạc nhiên trong giây lát, chú ý thấy ánh mắt của nàng không có tiêu cự thì suy nghĩ một chút rồi thu khăn lại, ngồi xổm xuống hỏi: “Ngươi không nhìn thấy sao?”

Nữ tử sững người, hung hăng đáp: “Đúng! Ta là một kẻ mù!”

Giọng nói đầy kiêu ngạo.

Phi Nô đứng ở phía sau định bước lên, nhưng Tiêu Giác khẽ lắc đầu.

Hòa Yến cảnh giác siết chặt nắm tay.

Chỉ là muốn lặng lẽ treo cổ tự vẫn mà thôi, bây giờ thì sao? Dây vải đã đứt, lại còn bị một người xa lạ nhìn thấy tình cảnh quẫn bách này. Vì sao ông trời luôn đối xử với nàng một cách khó lường như vậy?

Tiêu Giác nhàn nhạt liếc nhìn nàng một cái, cúi xuống nhặt thanh phi đao dưới đất. Vừa rồi hắn đã dùng nó để cắt đứt sợi vải trên cây.

“Ngươi muốn làm gì?” Hòa Yến hỏi.

Tiêu Giác: “Đi ngang qua.”

Hắn thực sự không phải người tốt bụng thích lo chuyện bao đồng.

Làm đến bước này cũng xem như đã tận tình tận nghĩa. Tiêu Giác đứng dậy, quay người rời đi. Đi được vài bước, Phi Nô ghé sát lại, khẽ nói: “Hôm nay trong chùa Ngọc Hoa chỉ có Hàn lâm học sĩ Hứa Chi Hằng và phu nhân của hắn. Nữ tử này hẳn là Hứa đại nãi nãi vừa bị mù không lâu trước đó, Hòa Yến.”

Hòa Yến? Hắn khẽ nhướng mày, muội muội của Hòa Như Phi?

Tiêu Giác quay lại nhìn.

Nữ tử ấy đã mò mẫm tìm được đoạn vải bị đứt làm hai. Sợi vải không dài lắm, nhưng tuy bị chia làm hai đoạn thì miễn cưỡng vẫn có thể dùng. Nàng cầm một nửa sợi vải, thử đặt lên cổ mình hai lần, xác nhận nó vẫn có thể dùng được liền run rẩy buộc một nút thắt.

Nàng vậy mà lại muốn thắt cổ một lần nữa.

Tiêu Giác cảm thấy khó mà tin nổi, rồi lại có chút buồn cười.

Cố chấp đến mức ngu ngốc thế này, thực sự rất giống tên đường huynh kia của nàng.

Phần lớn những kẻ tìm chết chỉ là vì nhất thời kích động, trong lúc bốc đồng liền treo cổ, nhảy sông, nhảy vực. Nhưng khi thật sự đến một khắc cuối cùng, quá nửa trong số họ đều hối hận, chỉ là hối hận cũng đã muộn.

Nữ tử này rõ ràng đã nếm trải cảm giác cận kề cái chết, đáng lẽ sẽ không thử lần nữa, vậy mà vẫn cố chấp đến mức dây đứt rồi cũng muốn tiếp tục.

Vốn dĩ hắn nên mặc kệ, không ai có thể ngăn cản một người đã quyết tâm tìm chết.

Nhưng trong đầu Tiêu Giác bất chợt hiện lên hình ảnh từ nhiều năm trước—cũng là một đêm Trung thu như thế này, một thiếu niên thấp thỏm trở về phủ, nhưng chờ đợi hắn lại là thi thể lạnh lẽo của mẫu thân.

Hình ảnh trước mắt và ký ức dường như xếp chồng lên nhau. Trong một khắc, hắn không phân biệt được đây là quá khứ hay hiện tại.

Phi Nô đứng đằng sau, khó hiểu nhìn hắn.

Tiêu Giác hít sâu một hơi, cuối cùng thỏa hiệp, bước tới bên cạnh nữ tử kia hỏi: “Tại sao ngươi lại muốn chết?”

Hòa Yến giật mình.

Rõ ràng nàng đã nghe thấy tiếng bước chân đối phương rời đi, vì sao lại đột nhiên lại quay lại? Nàng đã sống cả đời nhẫn nhịn chịu đựng, bị người khác sắp đặt, lúc này nàng không muốn nghĩ cho bất kỳ ai nữa. Người này xen vào chuyện người khác khiến nàng cảm thấy thật khó chịu, liền trút hết cơn giận lên người hắn.

Nàng gần như gào lên: “Liên quan gì đến ngươi!”

Nam tử trẻ tuổi siết chặt lấy cánh tay nàng, kéo nàng đứng dậy từ mặt đất.

Hòa Yến kinh hoảng, nàng cố gắng vùng vẫy nhưng vì vốn đã kiệt sức, lại không thể nhìn thấy gì nên chỉ có thể bị hắn túm đi. Đi được hai bước nàng đột nhiên lại bị đẩy ngã, đặt mông ngồi bệt xuống đất.

Mặt đất mềm mại, là một bãi cỏ.

Người đó dường như đứng ngay bên cạnh nàng, cúi người, thanh âm lãnh đạm hỏi lại lần nữa: “Tại sao ngươi muốn chết?”

Trong lòng Hòa Yến đã chất đầy phẫn uất, nàng lớn tiếng đáp: “Ta đã nói là không liên quan đến ngươi! Hôm nay không có ánh trăng, cho nên ta muốn chết! Đường lên núi quá trơn, nên ta muốn chết! Ngay cả sợi dây vải của ta cũng bị đứt nên ta muốn chết! Ở đây lại gặp phải loại người thích xen vào chuyện người khác như ngươi, nên ta càng muốn chết! Được chưa!”

Nàng hung dữ hét lên nhưng nước mắt lại không ngừng trào ra. Vốn dĩ muốn tỏ ra khí thể hung hăng như một con hổ, nhưng nhìn nàng lại chẳng khác nào một con mèo hoang ướt sũng không nơi nương tựa.

Phi Nô khẩn trương đứng ở phía sau Tiêu Giác.

Tiêu nhị công tử chịu kiên nhẫn quản chuyện này đã là hiếm thấy, mà nữ nhân trước mắt này còn hung hãn như thế thì càng là hiếm thấy trong hiếm thấy.

Sau khi hét xong, Hòa Yến bỗng cảm thấy có thứ gì đó nhẹ nhàng lau lên mặt nàng. Mềm mại, mịn màng như đám mấy kéo xuống trong ngày xuân.

Giọng nói hờ hững vang lên, mang theo một tia ấm áp khó nhận ra, tựa như một lời an ủi bao dung: “Nếu ngươi thật sự muốn trở nên mạnh mẽ thì mù có làm sao, cho dù là mù, cũng có thể làm người mù đặc biệt nhất.”

Cơn giận dữ của nàng đột nhiên tắt ngúm.

Tất cả sự chật vật và yếu đuối đều không còn chỗ nào để ẩn giấu, tất cả đều bị phơi bày trước mặt người này.

“Không sao hết, dù ta không nhìn thấy, nhưng vẫn có thể nghe được. Có chàng bên cạnh ta, vậy là đủ rồi.” Nàng mỉm cười nói với Hứa Chi Hằng như vậy.

Làm sao có thể không sao?

Làm sao có thể không có gì?

Nàng đã bao đêm đưa tay khẽ chạm lên đôi mắt của mình, thầm khẩn cầu với trời cao ngày mai khi thức dậy nàng sẽ lại có thể nhìn thấy ánh sáng. Những đêm trằn trọc không ngủ, cắn răng tự nhủ với chính mình không sao cả, những đêm giả vờ như chẳng có gì xảy ra—bọn họ đều không biết.

Bọn họ không biết gì cả.

Thế nhưng, một người xa lạ đi ngang qua lại hiểu rõ.

Không được khóc, không thể để lộ sự yếu đuối, không được than vãn, không được tức giận. Thời gian trôi qua quá lâu, lâu đến mức những cảm xúc ấy như tằm nhả tơ, từng lớp từng lớp quấn chặt lấy nàng, hóa thành một cái kén kiên cố. Nàng ngồi trong kén một mình, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Bên ngoài kén, Hòa Yến dịu dàng, lạc quan, luôn mỉm cười nghĩ cho người khác. Nhưng bên trong, nàng đau khổ, uất ức, đè nén mọi tiếng kêu cứu vào trong lòng.

Bao nhiêu năm qua, từ “Hòa Như Phi” đến “Hòa Yến,” chiếc mặt nạ của nàng kỳ thật chưa từng được tháo xuống.

Cho đến đêm nay, có một người xa lạ đi ngang qua nhìn thấu tất cả, gỡ bỏ mặt nạ của nàng, phát hiện nước mắt của nàng.

Mọi đề phòng và cảnh giác trong lòng nàng phút chốc vỡ vụn, Hòa Yến chậm rãi cuối đầu, nước mắt từng giọt lớn rơi xuống.

Tưởng rằng sau câu nói đó nàng sẽ không khóc nữa, nhưng không ngờ nàng lại càng khóc to hơn. Mưa vẫn không có dấu hiệu dừng, bãi cỏ dưới thân nàng đã bị mưa xối ướt.

Tiêu Giác khẽ ngoắc tay, Phi Nô bước lên, hắn nhận lấy chiếc ô từ tay Phi Nô, che lên đầu Hòa Yến.

Nhưng nàng vẫn chưa ngừng khóc.

Hắn chưa từng gặp một nữ nhân nào vừa hung dữ, nóng nảy, lại còn đặc biệt biết khóc như vậy. Khó mà hiểu được tại sao Hòa Như Phí với tính cách vô tư ngốc nghếch kia lại có một muội muội hoàn toàn trái ngược như thế.

Tiêu Giác bị tiếng khóc của nàng làm cho luống cuống, cuối cùng không chịu nổi nữa phải lên tiếng: “Đừng khóc nữa.”

“Tại sao ta không được khóc?” Nàng giống như một con mèo hoang không biết tốt xấu, giương vuốt với người vừa cho mình ăn. Giọng nàng đã khàn đặc, nhưng vẫn cố cãi lại: “Không chỉ khóc, ta còn muốn chết, ta đã ra nông nỗi này rồi, sống còn có ý nghĩa gì nữa chứ… hu hu hu hu hu……”

Tiêu Giác: “……”

Hắn chưa từng dỗ dành nữ nhân, lần đầu tiên dỗ dành lại gặp phải kết quả thế này? Hoàn toàn dầu muối không ăn?

“Rốt cuộc thế nào ngươi mới chịu ngừng khóc?” Hắn cố nén tức giận, “Mới không tiếp tục thắt cổ nữa.”

Hòa Yến vẫn khóc thút tha thút thít. Thực ra đến lúc này nàng đã không còn ý định đi tìm chết. Con người có đôi khi chỉ mắc kẹt ở một khoảnh khắc nào đó, vượt qua được thì chính là quá khứ, không vượt qua được thì sẽ không gượng dậy nổi nữa. Người xa lạ này xuất hiện thật khó hiểu, câu nói vừa rồi cũng chẳng có chút ấm áp nào, thế nhưng……

Thế nhưng, nàng không muốn chết nữa.

Nàng nói: “Nếu bây giờ ngươi có thể cho ta một viên kẹo, ta sẽ không tìm chết nữa.”

Khi còn bé nàng rất thích ăn đồ ngọt, nhưng qua sinh nhật năm tuổi Hòa đại phu nhân quản thúc nàng vô cùng nghiêm khắc. Vì sợ lộ tẩy, thói quen thích ăn ngọt giống tiểu cô nương phải sửa lại. Về sau nàng lại tòng quân, trong quân doanh không có kẹo ngọt, chỉ có bánh khô lạnh cứng. Sau này khi gả cho người, có lần Hòa Yến thấy Hứa Chi Hằng đến thăm Hà Uyển Như bị bệnh còn đặc biệt mang cho nàng ta một hộp mứt hoa quả nhỏ.

Hà Uyển Như uống một ngụm thuốc đắng, Hứa Chi Hằng liền đút một viên mứt quả cho nàng ta. Hòa Yến vô tình đi ngang qua cửa sổ nhìn thấy cảnh ấy, trong lòng lập tức dâng lên một nỗi chua xót, không biết là vì hâm mộ Hứa Chi Hằng đối tốt với Hạ Uyển Như như thế, hay là vì hâm mộ Hà Uyển Như chỉ cần chịu một chút đắng thôi liền có thể nhận lại rất nhiều ngọt ngào.

Hòa Yến chưa bao giờ làm nũng, nhưng đêm nay, không hiểu vì sao nàng lại muốn tùy hứng đến cùng trước mặt người xa lạ này.

Thanh niên khẽ sững lại, nghiêng đầu nhìn nàng.

Khuôn mặt nữ tử bị khăn tay lau qua loa vài cái, gò má vẫn còn lấm lem bùn đất, đôi mắt hơi sưng đỏ nhưng lại sáng lạ thường, ánh lên sự quật cường như hắn đã từng thấy ở đâu đó.

Thật giống thiếu niên vụng về nào đó.

Hắn trầm mặc một lát, đầu ngón tay thon dài tháo xuống túi thơm bên hông.

Phi Nô cả kinh.

Túi vải màu xanh sẫm được cầm trong tay, hắn khẽ dốc đáy túi, một viên kẹo hoa quế bọc trong giấy gói kẹo rơi ra.

Thời gian đã qua quá lâu, giấy gói đã dính chặt vào kẹo, đen sạm đến mức không còn nhìn rõ hình dạng ban đầu. Sau khi Tiêu phu nhân qua đời, Tiêu Giác vẫn luôn mang theo viên kẹo hoa quế cuối cùng bên mình. Những năm tháng khó khăn nhất, những khi tưởng như không thể gắng gượng nổi, chỉ cần nhìn viên kẹo này, hắn dường như có thể nếm được chút ngọt ngào còn sót lại của nhân gian.

Đó là chút ngọt ngào duy nhất trong cuộc đời hắn, hiện tại hắn muốn đưa nó cho nữ tử đang khóc lớn đòi tìm chết này. Hắn nghĩ cuộc đời mình đã chẳng cần đến kẹo nữa, vậy thì cứ như vậy đi.

Hòa Yến cảm thấy có thứ gì đó được nhét vào tay mình.

Nàng theo bản năng nắm chặt, định bóc ra.

“Không được ăn.” Giọng nam tử vang lên bên cạnh.

“Gì cơ?” Nàng hỏi, “Ngươi có phải đang lừa ta không? Tùy tiện nhặt một viên đá rồi nói đó là kẹo?”

Hòa Yến nghe thấy giọng đối phương mang theo một chút buồn bã nhàn nhạt: “Viên kẹo này, trên đời chỉ còn lại một viên duy nhất. Rất ngọt, nhưng ngươi không thể ăn.”

“Ngươi có bệnh à?” Hòa Yến chưa từng nghĩ mình lại là người được đằng chân lân đằng đầu như vậy. Nàng đoán người này nhất định có tính tình rất tốt, tâm địa mềm mại nên mới có thể chịu đựng sự hồ nháo hết lần này đến lần khác của nàng. Nàng nói: “Rất ngọt mà không được ăn, trên đời lại chỉ có một viên, đây chẳng lẽ là ngự tứ của bệ hạ?”

Nàng không nhìn thấy thanh niên tuấn mỹ ngồi bên cạnh cúi đầu khẽ cười, nhẹ giọng nói: “Còn quý hơn cả ngự tứ.”

Hòa Yến nhân lúc đối phương không chú ý, nhanh chóng bóc vỏ kẹo rồi nhét vào miệng.

“Ngươi……” Hắn ngẩn người.

“Ta ăn rồi, nuốt xuống rồi!” Hòa Yến chơi xấu.

Đối phương không trả lời.

Đây là viên kẹo đầu tiên Hòa Yến nhận được trong đời. Mùi vị của nó rất lạ, hòa lẫn với nước mắt của nàng, đắng ngắt, nhưng nàng thầm nghĩ, cứ vậy đi.

“Mưa đã ngừng chưa?” Nàng không còn cảm nhận được những hạt mưa rơi trên người mình, vươn tay quờ quạng trong không trung, hỏi người bên cạnh.

Thanh niên bên cạnh vẫn luôn quỳ một gối trên đất che ô cho nàng. Chiếc ô không lớn, phần lớn cơ thể hắn đã bị mưa thấm ướt. Đường nét trên gương mặt hắn rõ ràng, hàng mi dài vương những hạt nước mưa li ti, khiến ánh mắt hắn như phủ một tầng dịu dàng nhàn nhạt.

“Ngừng rồi.”

“Trên trời có trăng không?”

Bầu trời u ám, chẳng có lấy một vì sao, làm gì có trăng?

Hắn đáp: “Có.”

“Bên ngoài……trông như thế nào?”

“Trăng sáng như sương, gió mát như nước, cảnh đẹp vô hạn.”

Hòa Yến nở nụ cười đầu tiên trong đêm nay: “Thật tốt.”

Nàng nghe thấy người bên cạnh hỏi: “Không muốn chết nữa?”

“Không muốn nữa.”

“Không muốn chết thì trở về đi.” Hắn nói, rồi kéo Hòa Yến đứng dậy. Hòa Yến vô thức muốn nắm lấy tay hắn, nhưng bàn tay thon dài với những khớp xương rõ ràng kia đã buông ra rất nhanh.

Tiêu Giác đi đến trước mặt Phi Nô, thấp giọng dặn dò: “Đưa người đến chỗ đại tẩu, để đại tẩu đưa về. Ta là nam tử, không tiện ra mặt.”

Phi Nô nhận lệnh.

Lúc sắp đi, hắn bỗng nói thêm: “Cảnh cáo Hứa Chi Hằng, bảo hắn đừng quá phận.”

Đây rõ ràng là có ý muốn xuất đầu cho Hòa Yến.

Phi Nô tiến lại đỡ lấy Hòa Yến. Hòa Yến dường như cảm nhận được đối phương sắp rời đi, vươn tay về phía hắn, nói: “……đa tạ, ngươi là ai?”

Hắn không trả lời. Hòa Yến chỉ kịp chạm vào một góc tay áo của hắn, tay áo trượt qua tay nàng, lạnh lẽo mà mềm mại, tựa như ánh trăng vậy.

Rõ ràng cái gì cũng không thể nhìn thấy, nhưng nàng lại mơ hồ nhìn thấy ánh sáng—ấm áp lại rực rỡ sáng ngời, không có nửa phần trách cứ, kiên nhẫn, bao dung, liếc mắt một cái liền nhìn thấu tất cả bí mật của nàng, rồi lại dịu dàng bao bọc lấy nàng.

Đến cuối cùng, nàng cũng không biết đối phương rốt cuộc là ai.

Đó là Trung thu tệ nhất mà Hòa Yến từng trải qua—cả người dính đầy bùn đất, đầu tóc rối xù, suýt chút nữa đã rơi vào tuyệt cảnh. May mắn thay, ánh trăng vẫn luôn ở bên nàng.

Đêm đó không có trăng, nhưng ánh trăng của đêm đó thật đẹp. Ánh sáng mỏng manh mà dịu dàng ấy, đã sưởi ấm nàng suốt nhiều năm.