Trùng Sinh Chi Nữ Tướng Tinh – Chương 161
NHÂN SINH KHÁC BIỆT
Hai ngày sau, Liễu Bất Vong nhập táng.
Theo phong tục của Tế Dương, người sau khi qua đời sẽ được đặt vào quan tài gỗ rồi đưa lên thuyền thả trôi theo dòng nước, gọi là thủy táng. Con thuyền ấy gọi là “thuyền chở hồn”, bởi vì thành Tế Dương sống dựa vào sông nước, người Tế Dương tin rằng Thủy Thần nương nương sẽ dùng thuyền đưa linh hồn người đã khuất sang bờ bên kia.
Hòa Yến đến tiễn đưa Liễu Bất Vong đoạn đường cuối cùng.
Liễu Bất Vong nằm trong quan tài gỗ, nét mặt vô cùng an tĩnh. Không rõ lúc lâm chung ông đã nghĩ đến điều gì mà nơi khóe môi vẫn vương một nụ cười. Hòa Yến đặt bó hoa trong tay lên mạn thuyền.
Mối duyên sư đồ giữa nàng và Liễu Bất Vong thực ra vô cùng ngắn ngủi. Chính Liễu Bất Vong là người kéo nàng ra khỏi đống xác chết, dạy cho nàng dùng cung, cưỡi ngựa, dùng đao kiếm. Kỳ môn độn giáp mà ông truyền thụ kết hợp với binh thư nàng từng học đã thay đổi cả vận mệnh đời nàng.
Nếu năm ấy không có bàn tay của Liễu Bất Vong đưa ra, e rằng nàng đã chết trong sa mạc ở huyện Mạc rồi. Sống lại một đời, gặp lại Liễu Bất Vong, nàng cứ ngỡ là trời cao ban ơn, nào ngờ đoạn duyên này như phù dung sớm nở tối tàn, nở rộ rồi vụt tắt quá nhanh.
Hòa Yến hận bản thân không kịp nói với Liễu Bất Vong nhiều hơn một chút, để lại biết bao nuối tiếc. Nàng còn chưa kịp hỏi về chuyện năm xưa giữa ông và Mục Hồng Cẩm là thế nào, cũng chưa kịp hỏi những năm qua ông đã đi qua những nơi đâu. Nàng cũng chẳng có cơ hội chia sẻ với ông những tâm sự trong lòng—những điều nàng vẫn luôn lưỡng lự, không thể giãi bày. Nhân duyên với bậc trưởng bối trong đời nàng dường như luôn rất mỏng manh, với cha mẹ, thân thích lại càng bạc bẽo, Liễu Bất Vong vừa là thầy, vừa như cha, nay cũng đã rời xa.
Trên thế gian, việc nuối tiếc vẫn luôn nhiều hơn tròn vẹn.
“Điện hạ.” Hòa Yến nghe thấy Thôi Việt Chi ở phía sau bỗng lên tiếng, nàng quay đầu lại, thấy Mục Hồng Cẩm đang bước tới.
Bà không còn khoác bộ trường bào đỏ rực thường ngày mà đã thay bằng một bộ y phục đen tuyền. Tóc dài tết lại rồi vấn lên cao, đầu vẫn đội kim quan. Vẫn là dung nhan tuyệt mỹ, mạnh mẽ như xưa, nhưng thần sắc lại thoáng hiện nét mơ hồ, trông như thể một hài tử lạc đường, lộ ra vài phần yếu ớt.
Hòa Yến nhường bước, Mục Hồng Cẩm lặng lẽ tiến lên, đi đến trước con thuyền.
Đồ tùy táng của nam tử nằm trên thuyền chỉ có một thanh kiếm và một cây cầm, sẽ cùng được để lại trong quan tài. Khi xuống núi, Liễu Bất Vong đã thanh cao thoát tục như thế, lúc lìa trần, vẫn sạch sẽ không nhiễm bụi trần. Bạch y thiếu niên, dẫu có già đi, nhưng dường như vẫn là thiếu niên năm ấy.
Mục Hồng Cẩm lặng lẽ nhìn.
Tiêu Giác nói Liễu Bất Vong đã không còn nữa, lúc đầu bà không tin, sau lại cảm thấy thấy nực cười, cuối cùng một nỗi trống rỗng khôn cùng ập đến, khiến bà khó mà chấp nhận rằng chuyện ấy đã thực sự xảy ra.
Nhưng đã xảy ra, nghĩa là đã xảy ra. Rất nhiều việc vốn chẳng thể nào thay đổi theo ý người. Và bà cũng chẳng còn là tiểu cô nương ngây thơ ngày trước, chỉ biết vùi đầu vào gối mà tự lừa mình rằng “chỉ cần không tin thì sẽ không là thật” nữa.
Vì vậy, bà đã đến.
Liễu Bất Vong chết vì bảo vệ thành Tế Dương, trước khi chết ông đã một mình bày trận nơi bờ sông trước miệng hồ lô, lấy một địch trăm, địch ngàn, không nói với bất kỳ ai.
Ông vẫn y như xưa—chuyện gì cũng chẳng chịu nói ra.
Đây là nam tử duy nhất mà bà từng yêu trong đời. Dẫu trong lòng Liễu Bất Vong có bóng hình người khác, dẫu họ đã đoạn tuyệt từ nhiều năm trước, nhưng vương vấn vẫn là vương vấn. Ông chết rồi, Mục Hồng Cẩm vẫn thấy đau lòng.
“Điện hạ.” Hòa Yến do dự một lúc rồi bước đến, mở bàn tay ra: “Ngài có nhận ra vật này không?”
Mục Hồng Cẩm chậm rãi quay đầu, thấy trong tay Hòa Yến là một chiếc vòng bạc. Vòng được mài nhẵn nhụi, bên rìa vẫn còn thấp thoáng thấy những bông cúc nhỏ được khắc vòng quanh. Trong thoáng chốc, những hình ảnh xưa cũ như ùa về, dường như có tiếng bà lão hiền hậu vang lên bên tai.
“Vòng này gọi là vòng Duyệt Tâm, mua một chiếc đeo lên tay người trong lòng, một đời một kiếp chẳng lìa xa.”
“Liễu thiếu hiệp, nghe thấy chưa? Mau mua một chiếc tặng ta đi!”
“Nàng không phải người trong lòng ta.”
Mục Hồng Cẩm ngơ ngác nhìn chiếc vòng trước mắt như nhìn một món quà đến muộn. Cổ họng bà nghẹn lại, khàn khàn hỏi: “Sao ngươi có được thứ này?”
“Trước lúc sư phụ mất, tay vẫn luôn siết chặt chiếc vòng này. Ta nghĩ, nó hẳn là rất quan trọng với người.” Hòa Yến nhìn bà, “Đây là vòng của điện hạ sao?”
Mục Hồng Cẩm nhận lấy chiếc vòng từ tay Hòa Yến, lẩm bẩm: “Ta không biết.”
Sao bà có thể biết được? Những lời nói đùa năm xưa đã vùi sâu vào ký ức, đến cả hoài niệm cũng chẳng dám nhắc đến. Khi ấy nàng đã thẳng thừng đối chất để biết rằng Liễu Bất Vong không thích mình, thế mà giờ đây, chiếc vòng này lại rõ ràng, rành rẽ nói cho bà biết rằng, thì ra trong lòng Liễu Bất Vong, từng có Mục Hồng Cẩm bà sao?
Sao bà dám tin?
Làm sao bà có thể tin?
Trong lòng Hòa Yến cũng dâng lên một nỗi bi ai bất lực. Liễu Bất Vong đã đi rồi, không ai còn biết rõ chuyện năm xưa ra sao, nhưng nàng vẫn muốn thay ông biện hộ một lời.
“Điện hạ, ta vẫn luôn cảm thấy, chuyện năm xưa giữa người và sư phụ, có lẽ có nhiều hiểu lầm.” Hòa Yến khẽ nói, “Chỉ là người nay đã chẳng còn nữa. Nếu điện hạ nhận ra chiếc vòng này, xin hãy giữ lại. Nếu thấy khó xử…… thì xin hãy để nó trở về trong quan tài.”
“Nhưng ta nghĩ,” Hòa Yến khẽ nói: “nếu sư phụ vẫn còn sống, người hẳn sẽ muốn người giữ lấy nó.”
Một lễ vật chưa kịp trao, một lời giải thích đến muộn, một câu thổ lộ thẳng thắn chân thành — có lẽ chính là điều khiến Liễu Bất Vong day dứt nhất lúc còn sống.
Nhưng tiếc nuối thì có ích gì? Người cũng đã mất rồi, tất cả những ân oán liên quan, cho dù cam tâm hay không, tình nguyện hay không, cũng đã đều tan thành mây khói.
Câu chuyện đến đây đã khép lại rồi.
Mục Hồng Cẩm nhìn chiếc vòng bạc trong tay, một lúc sau mới chậm rãi siết chặt bàn tay, khẽ nói: “Ta biết rồi.”
Hòa Yến thấy bà như có ý giữ chiếc vòng lại thì trong lòng cũng nhẹ nhõm đôi chút. Những gì nàng có thể làm cho Liễu Bất Vong thật chẳng còn nhiều, nay cũng chỉ còn lại việc này mà thôi.
Nắp quan tài khép lại, xung quanh con thuyền được phủ kín bằng đủ loại hoa dại. Liễu Bất Vong xuống núi vào mùa xuân, giờ đây lại trở về vào mùa xuân. Dòng nước trong vắt đẩy chiếc thuyền nhỏ trôi đi, mỗi lúc một xa, cuối cùng khuất bóng giữa làn sóng biếc và núi non trập trùng.
“Bờ bên kia……rốt cuộc là ở đâu?” Hòa Yến thì thầm.
Nhưng ai mà biết được? Giống như năm xưa Liễu Bất Vong xuống núi gặp Mục Hồng Cẩm, nghe bà bà bán hoa nói về “một đời một kiếp không rời xa”, cũng chỉ cười nhạt.
Khi ấy cứ ngỡ một đời là dài lâu, nhưng hóa ra chỉ gặp vài người, nghe vài khúc nhạc, vài lần tương phùng, vài lần ly biệt, thế là hết một đời.
……
Sau khi tang lễ của Liễu Bất Vong kết thúc, đoàn người Hòa Yến chuẩn bị khởi hành trở về Lương Châu Vệ.
Thôi Việt Chi đến tiễn đưa bọn họ, ông đứng ở cổng Thôi phủ không ngừng sai người chất đồ lên xe ngựa.
“Đây đều là đặc sản của Tế Dương, các người mang về nhiều một chút. Ở Lương Châu không có những thứ này đâu.”
Lâm Song Hạc chống đầu vào quạt nói: “Thịt thỏ nướng kia thì không cần mang theo đâu, đầy dầu mỡ, mang lên xe cũng bất tiện.”
“Cứ mang đi,” Thôi Việt Chi rất kiên quyết, “trên đường đói bụng còn có cái mà ăn. Chung Phúc,” ông gọi quản gia, “quả hạnh đã chuẩn bị xong chưa?”
“Xong rồi đây ạ.” Chung Phúc xách tới một túi vải đựng đầy hồng hạnh, “Đều đã rửa sạch sẽ rồi, trên đường nếu Đô đốc và cô nương khát nước thì ăn vài quả, vừa ngon vừa giải khát.”
Hòa Yến: “……”
Người không biết còn tưởng bọn họ đi du xuân đấy.
Thật đúng là thịnh tình không thể chối từ.
“Thật sự đủ rồi, Thôi đại nhân,” Hòa Yến cười nói, “còn nhét thêm nữa thì ta với Đô đốc không còn chỗ ngồi mất.”
Thôi Việt Chi nhìn chiếc xe ngựa đã bị nhét đầy ắp, cuối cùng cũng thôi, cười nói: “Được rồi, thôi vậy. Thời gian các vị ở Thôi phủ ta quá ngắn, nếu ở lại lâu hơn, ta nhất định sẽ dẫn mọi người dạo khắp thành Tế Dương.” Nói đến đây, ông lại trang trọng cúi người hành lễ với Tiêu Giác và Hòa Yến: “Tế Dương có thể thoát nạn lần này, đều nhờ vào Tiêu Đô đốc, Hòa cô nương, còn có Liễu sư phụ. Đại ân đại đức này, Thôi mỗ khắc cốt ghi tâm, bách tính thành Tế Dương cũng sẽ không bao giờ quên. Nếu sau này hai vị cần đến Thôi mỗ, cần đến thành Tế Dương, dù có vào nước sôi lửa bỏng, Thôi mỗ và dân chúng Tế Dương quyết không từ nan.”
“Hòa cô nương, nếu sau này có dịp nhất định phải đến thành Tế Dương chơi nữa nhé.” Người lên tiếng là tứ di nương của Thôi Việt Chi, bà tươi cười rạng rỡ: “Lần sau ở lâu hơn một chút, chúng thiếp thân sẽ nấu thật nhiều món ngon cho cô nương.”
Nhị di nương thì nhìn về phía Tiêu Giác, cười khanh khách: “Tiêu Đô đốc cũng vậy.”
Vệ di nương trừng mắt lườm hai người họ, rồi bước lên nắm lấy tay Hòa Yến, dặn dò: “Trên đường cẩn thận nhé.”
Hòa Yến mỉm cười gật đầu. Đang trò chuyện thì bên ngoài có người tới báo: “Trung Kỵ đại nhân, Mộc Di dẫn người đến, nói muốn từ biệt Hòa cô nương.”
Tiêu Giác nhướng mày, Hòa Yến hỏi lại: “Từ biệt ta?”
Người Mộc Di mang theo chính là năm mươi người từng đi cùng Hòa Yến đốt thuyền quân Ô Thác. Trong số đó có hơn hai mươi người đã hy sinh trong chiến trận, nhưng ít ra cũng giữ được nửa số người còn sống. Giờ đây nghe tin Hòa Yến sắp rời đi, hai mươi mấy người còn lại theo Mộc Di đến cảm tạ.
“Nếu không nhờ Hòa cô nương,” một thanh niên gãi đầu, “bọn ta chưa chắc còn mạng mà đứng đây. Trước cô nương rời đi, huynh đệ chúng tôi muốn cùng đến nói lời cảm ơn.”
Mộc Di lấy ra một chiếc khung gỗ, đưa cho Hòa Yến: “Đây là lễ vật mọi người cùng gửi tặng Hòa cô nương.”
Hòa Yến nhận lấy, thì ra là một bức tranh gỗ được tạc nguyên khối. Trên tranh khắc cảnh biển lửa ngập trời, nơi đầu thuyền có một nữ tướng trẻ khoác áo giáp, tay cầm roi dài, tóc buộc cao sau đầu, khí khái hiên ngang, oai hùng ngời ngời.
Hòa Yến nhìn bức tranh thật lâu, rồi ngập ngừng hỏi: “Đây là…… ta sao?”
“Đúng vậy.” Lại có người lên tiếng: “Chúng ta góp chút bạc, tìm thợ giỏi nhất ở thành Tế Dương khắc ra đấy. Chỉ tiếc là vẫn không khắc ra được thần thái của Hòa cô nương. Hôm ấy khi cô nương dùng roi đánh chìm chiến thuyền Ô Thác thật khiến người ta nhiệt huyết sôi trào, lợi hại hơn bức tranh này nhiều!”
“Đúng thế! Dù có khắc ra được dung mạo thì cũng chẳng thể khắc ra được mỹ mạo thật sự của cô nương!”
“Đúng đúng, mỹ mạo của Hòa cô nương, thần tiên cũng không thể vẽ ra được.”
Đến cuối cùng, toàn là những lời tán thưởng đầy chân thành, khiến mặt Hòa Yển cũng ửng đỏ. Ừm, lúc này nàng đã cảm nhận được sự nhiệt tình của nam tử Tế Dương rồi.
Thôi Việt Chi đứng bên cạnh, cười tủm tỉm nhìn một màn trước mắt.
Mộc Di nhìn Hòa Yến hỏi: “Hòa cô nương nhất định phải quay về Lương Châu Vệ sao?”
Hòa Yến khựng lại một chút, rồi gật đầu đáp: “Ta còn việc quan trọng cần làm.”
“Vậy à.” Trong mắt chàng trai trẻ chợt lóe lên vẻ tiếc nuối, nhưng chỉ chốc lát sau lại nhìn thẳng vào mắt nàng, nghiêm túc hỏi: “Vậy sau này…… cô có còn đến Tế Dương nữa không?”
Mộc Di vốn đã tuấn tú hào sảng, lúc này ánh mắt vừa chân thành vừa ngượng ngùng, khiến người khác khó lòng chống đỡ. Dù Hòa Yến có vô tâm vô phế đến đâu, đối diện với ánh nhìn ấy cũng đã lờ mờ đoán được vài phần. Nàng hơi lúng túng, nhưng cũng rất cảm động— bất cứ ai, khi đối mặt với một tấm chân tình đều khó thể dửng dưng.
Được người khác quý mến, vốn là một việc rất đáng trân trọng.
“Ta rất thích Tế Dương.” Nàng mỉm cười nhìn Mộc Di, “Sau này nếu có cơ hội, nhất định sẽ quay lại.”
Mộc Di ngẩn người, rồi gãi đầu, cười ngây ngô.
“Đấy,” Lâm Song Hạc phe phẩy quạt, ghé sát tai Tiêu Giác nói nhỏ: “Ta sớm đã nói rồi, Hòa muội muội của ta đây, vừa có dung mạo tính tình lại tốt, nhất định sẽ được người ta quý mến. Ngươi xem, biết bao ánh mắt nhìn chằm chằm như hổ rình mồi. chậc chậc, ngươi phải trông chừng Hòa muội muội cho kỹ đấy.”
Tiêu Giác khẽ cười khẩy, như thể nghe chuyện hoang đường: “Mắt nhìn người kiểu gì thế không biết.”
“Đương nhiên là mắt nhìn tốt rồi.” Lâm Song Hạc xếp quạt lại, “Ngươi phải biết rằng, vàng thật thì thế nào cũng sẽ toả sáng.”
Đang lúc hai người đang trò chuyện thì có người từ trong Thôi phủ đi ra, y mặc trường bào màu thiên thanh, dáng người thanh mảnh, khí chất ôn hòa—không ai khác chính là Sở Chiêu. Đi sau hắn là Ứng Hương, tay xách theo một bọc hành lý.
“Sở tứ công tử?” Thôi Việt Chi hơi ngạc nhiên.
Mối quan hệ giữa Tiêu Giác và Sở Chiêu, Thôi Việt Chi đã nghe Mục Hồng Cẩm nói qua. Hai người này vốn chẳng hợp nhau, lập trường lại đối lập. Mục Hồng Cảm sắp xếp cho họ ở cùng một nơi, cũng là có ý cân bằng. Lần này đánh bại được người Ô Thác, bản đồ bố phòng và tin tình báo do Sở Chiêu đưa tới cũng có công lao không nhỏ. Nhưng Thôi Việt Chi vốn xuất thân võ tướng, nên từ đầu đã có chút đồng cảm với Tiêu Giác, sau lại cùng kề vai chiến đấu, lòng sớm đã nghiêng hẳn về phía Tiêu Giác. Vì thế, đối với Sở Chiêu ông vẫn luôn giữ thái độ khách sáo xa cách.
“Sở tứ công tử định đi đâu vậy?” Thôi Việt Chi hỏi.
“Ta đến Tế Dương cũng chỉ vì chuyện người Ô Thác. Nay việc đã xong, cũng nên cáo từ chư vị.” Hắn khẽ cười, “Trước đó không nói với đại nhân là vì không muốn làm phiền. Mấy ngày nay đại nhân bận rộn dọn dẹp chiến trường quanh kênh đào, hẳn là phân thân không xuể.”
“Nghe nói cứ như thể hắn rất biết điều, còn chúng ta thì rất phô trương vậy.” Lâm Song Hạc ghé sát lại Tiêu Giác thì thầm: “Hắn giỏi ăn nói thật.”
Thôi Việt Chi chỉ mỉm cười: “Công tử khách sáo rồi, lẽ ra nên báo trước một tiếng, Thôi mỗ dù bận thế nào nhưng thời gian tiễn tứ công tử vẫn phải có. Nhưng mà,” Thôi Việt Chi nhìn về phía Tiêu Giác, “Nếu công tử đi hôm nay, thì có thể cùng đi với Tiêu Đô đốc, trên đường cũng đỡ cô quạnh.”
Tiêu Giác nghe vậy, sắc mặt vẫn lạnh nhạt, đến một chút giả vờ hoà nhã cũng không buồn làm.
Hòa Yến nghĩ thầm, lời khách khí này của Thôi Việt Chi có hơi gượng ép rồi. Chỉ sợ Sở Chiêu cố ý chọn ngày hôm nay để cùng khởi hành.
Nhưng nàng không ngờ, Sở Chiêu nghe xong lại mỉm cười nói: “Đúng vậy, vừa hay đích đến của chúng ta đều là Lương Châu Vệ.”
Lương Châu Vệ?
Sở Chiêu kinh ngạc: “Sở…… tứ công tử sao lại đến Lương Châu Vệ?”
Tiêu Giác ngẩng đầu, ánh mắt rơi lên người hắn.
“Chiến sự ở Tế Dương, ta đã viết thư báo với Từ Tướng.” Sở Chiêu cười nhẹ, “Trước khi có thánh chỉ của bệ hạ, ta sẽ tạm ở lại Lương Châu Vệ. Dù sao thì việc ở Tế Dương, ta cũng đã chứng kiến từ đầu đến cuối.”
Hắn không nói tiếp nữa, nhưng ý tứ thì mọi người đều đã hiểu rõ.
Trong lòng Thôi Việt Chi thầm lắc đầu rùng mình – tranh đấu trong triều đình chẳng ngờ đã gay gắt đến mức này? Thảo nào lại để cho người Ô Thác có cơ hội thừa nước đục thả câu.
Tiêu Giác nghe vậy, ban đầu chỉ khẽ cười nhạt, rồi cong môi cười như không cười:
“Sở tứ công tử muốn ở lại Lương Châu Vệ, được thôi.”
“Nhưng Lương Châu Vệ, do bản soái định đoạt.”
Sở Chiêu miễn cười đáp lại, không hề tức giận.
Tiêu Giác không để ý đến y nữa, xoay người lên xe ngựa.
Ánh mắt Hòa Yến nhìn về phía Sở Chiêu lúc này cũng có phần khác đi – người này…… hình như cố tình.
Cố tình đến mức chẳng thèm che giấu nữa.
Nàng hành lễ với Sở Chiêu:
“Vậy Sở huynh, ta lên xe trước.”
Không đợi Sở Chiêu đáp lời, nàng đã vội vàng trèo lên xe.
Sở Chiêu khiêu khích như vậy, Tiêu nhị công tử chắc chắn không vui. Lúc này tuyệt đối không thể nhổ lông trên đầu hổ, nếu làm Tiêu Giác nổi giận, không cho nàng vào Nam Phủ Binh thì chuyến đi này thật là uổng công vô ích rồi.
Hành động vội vã của nàng rơi vào mắt Sở Chiêu, khiến hắn hơi ngẩn ra, rồi khẽ lắc đầu cười, sau đó mới lần lượt cáo biệt với Thôi Việt Chi cùng mọi người, rồi ung dung cùng Ứng Hương lên xe ngựa của mình.
Đoàn xe dần dần rời khỏi thành.
Lâm Song hạc vén màn xe, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Thành Tế Dương vừa mới trải qua chiến sự với quân Ô Thác, không còn náo nhiệt như trước, nhưng những con kênh lớn nhỏ vẫn vậy, thuyền bè lặng lẽ trôi. Nghĩ đến chắc cũng không bao lâu nữa, nơi này sẽ lại trở về cảnh tượng sống động như xưa.
Lúc đến chỉ coi như một chuyến rong chơi, giờ thật sự phải đi, lại nảy sinh biết bao nỗi quyến luyến.
Lâm Song Hạc ngắm nhìn một lúc, khẽ thở dài.
Hòa Yến vẫn ôm chặt bức tranh khắc gỗ mà đám người Mộc Di tặng nàng. Ngón tay khẽ lướt qua từng đường nét – nữ tử được khắc trên gỗ lại mang chút phong thái oai hùng của nữ tướng kiếp trước.
Tiêu Giác thấy động tác của nàng, liền trêu hcoj:
“Giờ thì không sợ mang về bị người Lương Châu Vệ phát hiện nữa à?”
Lúc trước chỉ một con tò he thôi cũng đã làm nàng rối rắm khó xử, lo sợ đủ điều. Giờ thì lại ôm khư khư cả bức tranh khắc gỗ to thế kia như bảo vật, không còn nhắc gì đến chuyện “nếu bị phát hiện là nữ thì xong đời”, quả là lòng dạ nữ nhân, không thể tin được.
“Thật sự không được thì ta bảo là quà người ta tặng vị hôn thê của ta. Đây chẳng phải Đô đốc ngài dạy ta sao.” Hòa Yén đáp, “Nhiều người như thế, nhiều tâm ý như vậy, thịnh tình không thể chối từ, không thể chối tử được.”
Miệng thì khiêm tốn, nhưng ánh mắt lại hiện lên sự mãn nguyện và tự đắc, khiến Tiêu Giác chỉ thấy buồn cười, hắn khẽ ngả người ra sau, trong mắt thoáng qua ý cười, nhàn nhạt nói:
“Cũng được lòng người đấy.”
Xe ngựa dần dần đi xa.
Mục Hồng Cẩm đứng bên bờ sông, giữa những dãy núi trập trùng, bóng dáng chiếc thuyền chở hồn đã chẳng còn thấy nữa.
Người thiếu niên năm nào, lại một lần nữa trở về với núi sông, còn bà thì vẫn phải tiếp tục ở lại đây, nơi đại điện lạnh lẽo, ngồi lên chiếc ghế cao cao kia.
Đó là trách nhiệm của bà.
“Tiểu điện hạ đã trên đường trở về rồi.”
Nữ thị tỳ bên cạnh khẽ nói: “Điện hạ, chúng ta cũng về phủ thôi.”
Mục Hồng Cẩm khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn về tận cùng của dòng sông một lần cuối, rồi xoay người rời đi, tay áo rộng tung bay, uy nghi và kiều diễm.
Trên cổ tay, dường như lóe lên một vệt ánh bạc, thoắt cái đã biến mất.
Không biết từ nơi nào xuất hiện một người lữ khách, đầu đội nón lá, tay chống gậy trúc, vừa đi dọc bờ sông vừa cất tiếng hát, giọng hát theo gió phiêu tán vào trong sông nước, dần dần xa mãi…
*“Người trở về còn vương vấn hiên nhà, nay ta lấy gì vơi nỗi cô đơn…
Lạnh giá nhớ chăn đơn áo mỏng, một mình cưỡi ngựa gầy dẫm ánh trăng tàn…
Biết rằng đời này ắt có ly biệt, chỉ sợ tháng năm trôi dạt mênh mang.
Đèn lạnh soi nhau, còn nhớ thuở trước, đêm mưa rơi, ai nghe tiếng tiêu sầu…”
*Trích đoạn từ bài thơ ““Ngày 19 tháng 11 năm Tân Sửu, sau khi chia tay Tử Do ở ngoài cửa Tây Trịnh Châu” của Tô Đông Pha, phỏng dịch.