Trùng Sinh Chi Nữ Tướng Tinh – Chương 78
TẾT TRUNG NGUYÊN
Bốn năm ngày liên tiếp sau đó, Hòa Yến cũng không đến Diễn Võ Trường luyện tập.
Bản thân nàng thật ra cũng không để ý vết thương trên đùi, nhưng vị y nữ Lương Châu Vệ, Thẩm Mộ Tuyết cô nương mỗi ngày sét đánh cũng không lay chuyển được mà đều đặn đến đưa thuốc cho nàng, còn mãi dặn dò không thể hoạt động kịch liệt. Hồng Sơn cũng ở một bên ồn ào: “Đệ nghe lời y nữ người ta đi, nếu đệ lại lăn lộn hỏng thân mình thì chờ đến ngày cướp cờ lấy không được đệ nhất, không vào được tiên phong doanh thì đừng có mà khóc.”
Hòa Yến nghĩ nghĩ, thôi từ bỏ, cũng không vội một hai ngày.
Tuy nhiên mấy ngày này, chỉ cần hết giờ huấn luyện trên Diễn Võ Trường là phòng nàng lúc nào cũng chật ních, người tới thăm nàng nối liền không dứt. Hôm nay Giang Giao mang tới vài quả mận chua lè, ngày mai Hoàng Hùng lại cho một chuỗi chim cút nướng cháy khét, khiến người cạn lời nhất chính là Vương Bá, hắn không hạ được mặt mũi mà tới thăm Hòa Yến nhưng lại bảo tân binh cùng phòng hắn đưa tới một cái bánh bao thịt bị cắn dở, vừa nhìn là biết là chiến lợi phẩm đoạt từ người khác. Hắn thật đúng là coi doanh trại như đỉnh núi nhà mình.
Lương giáo đầu có đến hai lần, lần nào đập vào mắt cũng là cảnh tượng Hòa Yến mặt mày hớn hở bị vây giữa đám đông, trên bàn nhỏ cạnh giường đồ ăn chất đầy như núi nhỏ, ông chua lòm để lại một câu: “Hừ, ngày tháng trôi qua không tệ nhỉ” rồi xoay người đi mất, Hòa Yến cũng thật bất đắc dĩ.
Cứ như thế ồn ào nhốn nháo, chờ khi vết thương trên khuỷu tay Hòa Yến đã kết vảy bảy tám phần, chân cũng đã có thể nhảy nhót trên mặt đất thì đã qua bảy tám ngày sau, thời gian cách ngày cướp cờ mỗi lúc một gần.
Hôm nay khi mặt trời còn chưa xuống núi thì mấy người Hồng Sơn đã trở lại, Hòa Yến kinh ngạc hỏi: “Còn chưa hết giờ huấn luyện trên Diễn Võ Trường, vì sao mọi người đã về rồi?”
“Hôm nay là ngày mười bốn tháng bảy, tết Trung Nguyên,” Tiểu Mạch giành trước trả lời, “Tổng giáo đầu cho chúng ta về sớm, ăn cơm xong có thể ra bờ sông thả đèn tế bái tổ tiên.”
“Lương Châu Vệ cũng khá tốt đấy chứ, còn cho mọi người thời gian để tế bái tổ tiên, thân nhân.” Hồng Sơn cảm thán.
Hòa Yến cười cười, thầm nghĩ đây vốn chính là truyền thống của quân doanh. Năm đó khi nàng ở Phủ Việt quân, mỗi năm vào tết Trung Nguyên, quan phủ ở địa phương đóng quân sẽ dạy moi người lập đạo tràng để tế bái quân sĩ bỏ mình trong chiến tranh. Hiện giờ Lương Châu Vệ trước mặt là sông sau lưng tựa núi, rất thích hợp để thả đèn.
“Đệ và đại ca muốn đi thả đèn cho cha mẹ,” Tiểu Mạch khi nhắc đến phụ mẫu đã khuất không còn quá thương cảm, chỉ là có chút nhàn nhạt thẫn thờ, hẳn là vì cha mẹ của cậu đi quá sớm, ký ức đã phai nhạt, cậu hỏi Hồng Sơn: “Sơn ca có đi tế bái không?”
“Đi, nương của ta mất từ sớm, ta đi thả một trản đèn cho nương.”
Mọi người đều không hẹn mà cùng nhìn về phía Hòa Yến: “A Hòa ca có đi không?”
Ở đây thân phận của Hòa Yến gần như là thần bí nhất, nàng cũng không thường kể chuyện trong nhà với mấy người Tiểu Mạch, Hồng Sơn cũng chỉ biết Hòa Yến là vì gia đạo sa sút, cùng đường nên mới đến tòng quân, nhưng nhìn lại bộ dáng tự tin ngời ngời của hắn trên Diễn Võ Trường lúc trước, Hồng Sơn lại cảm thấy Hòa Yến không phải là hài tử của gia đình bình thường.
“Ta? Ta cũng đi.” Hòa Yến rũ mắt, thanh âm trầm thấp, “Ta cũng có người phải tế bái.”
Nhóm Tiểu Mạch phát giác bầu không khí có chút khác thường, không dám tiếp tục truy vấn, lập tức dời câu chuyện, nói sang chuyện khác nhẹ nhàng hơn.
Sau khi ăn xong cơm chiều, mặt trời đã hoàn toàn khuất sau dãy núi, khi ánh trăng dần ló dạng trên bầu trời đêm, lúc này hầu như tất cả các tân binh Lương Châu Vệ đều đi ra phía bờ sông.
Đèn tế bái phải do tự mình gấp, giấy được chất đầy trong mấy sọt to trên Diễn Võ Trường, Hòa Yến cũng đi lấy một tờ, nàng không quá am hiểu mấy việc thủ công này, Tiểu Mạch thấy nàng lóng ngóng vụng về thì bảo nàng đưa giấy sang, cậu nhóc loẹt xoẹt hai ba cái đã gấp xong một chiếc đèn hình hoa sen cho nàng, sau đó còn giúp nàng đặt một đoạn nến trắng vào giữa đèn rồi mới đưa cho Hòa Yến: “Xong rồi!”
“Đa tạ.” Hòa Yến khen ngợi, “Đệ khéo tay thật.”
Tiểu Mạch ngượng ngùng cười cười: “Trước kia mỗi khi đến tết Trung Nguyên đệ và đại ca đều gấp thật nhiều đèn hoa đem đi bán nên gấp quen tay. Nếu giấy lớn hơn chút nữa thì đệ có thể gấp một chiếc to hơn đẹp hơn nữa!”
Thạch Đầu gõ vào đầu cậu, không đồng ý nói: “Đây cũng không phải là lúc để đệ khoe khoang.”
Tiểu Mạch lè lưỡi, tay cầm đèn chạy đi ra bờ sông Ngũ Lộc: “Đệ đi trước thả đèn đây, A Hòa ca mọi người nhanh lên!”
Sau khi lập thu, thời tiết Lương Châu vào ban đêm rất mát mẻ, buổi sáng trời còn đổ một trận mưa nên đến hiện tại khí lạnh vẫn chưa tan, rừng rậm trên núi lại còn sinh ra sương đêm mát lạnh, trăng sáng sao thưa, chiếu rọi nước sông rực rỡ lấp lánh.
Bên bờ sông sớm đã đông nghịt người đến tế bái tổ tiên, ánh nến đong đưa như hàng vạn đóa hoa bạc trôi lững lờ trên mặt sông, phản chiếu những ngọn lửa nhảy múa. Lửa đỏ sen trắng chờ theo tưởng niệm của người tế bái trôi về phương xa, tạo thành một luồng sáng lộng lẫy ở nơi nước và trời gặp nhau, rồi dần dần biến mất.
“Chúng ta thả ở đây là được, A Hòa ca……” Tiểu Mạch xoay người, sửng sốt, “A Hòa ca đâu?”
Hồng Sơn và Thạch Đầu hai mặt nhìn nhau, “Không biết, mới vừa rồi còn ở chỗ này.”
Ở một chỗ khuất nhất bên bờ sông, Hòa Yến đang ngồi trên một tảng đá, nơi này không phải là chỗ trống trải nên không có mấy người ở đây thả đèn. Hòa Yến lặng yên nhìn đèn hoa sen trong tay, trong lòng dâng lên nỗi chua xót khó tả.
Đột nhiên nàng nhớ tới kiếp trước, trước khi dìm nàng chết chìm trong hồ nước, Hạ Uyển Như đã nói: “Cô đã hoài thai.”
Một khắc đó, nàng thật sự vui mừng nhiều hơn là bối rối.
Chỉ là niềm vui này chỉ kéo dài được trong chốc lát rồi liền cùng nàng và hài tử chưa ra đời của nàng chìm xuống đáy hồ của Hứa gia.
Hòa Yến vẫn luôn cảm thấy kiếp trước nàng chưa từng làm gì có lỗi với ai, đối với Hòa gia, Hòa Như Phi, đối với Hứa Chi Hằng, những gì có thể làm nàng đều đã làm, thế nên người duy nhất mà nàng cảm thấy áy náy chính là cốt nhục trong bụng mình. Nàng cho con sinh mệnh, nhưng còn chưa kịp dẫn con vào đời thì lại bởi vì mình vô năng mà con đường ấy cứ thế bị cắt đứt. Có lẽ khi nàng làm võ tướng, có quá nhiều người đã chết dưới tay nàng, tạo thành vô số sát nghiệt nên trời cao vì thế mới trừng phạt nàng. Nhưng trừng phạt chính nàng là được, hà tất lại liên lụy đến đứa trẻ vô tội? Nàng thậm chí không biết trong bụng mình lúc ấy là một tiểu cô nương hay là một tiểu nam hài, đứa bé cứ thế chết non.
Hòa Yến lấy ra chiết hỏa tử, tia lửa từ chiết hỏa tử bắn ra trên tim nến, trong nháy mắt thắp cháy ngọn nến. Ánh sáng từ từ tràn ngập đèn hoa sen như đóa hoa nở rộ, ánh lửa phản chiếu trong mắt nàng dường như cũng thắp lên trong đó một ngọn lửa nhỏ, nước mắt như thể sắp rơi xuống nhưng lại nhanh chóng bị hong khô.
“Thật xin lỗi,” Nàng thấp giọng khổ sở nói: “Mẫu tử hai ta kiếp này không có duyên, nếu có kiếp sau con nhất định phải đầu thai đến một gia đình thật tốt, cả đời hỉ nhạc vô ưu, ngàn vạn đừng gặp lại ta.”
“Ta cũng sẽ……” Nàng thả đèn vào trong dòng nước, “sẽ báo thù cho con.”
Nước sông róc rách ôn nhu bọc trản đèn nhỏ đi về phía trước, Hòa Yến nhìn theo nó chằm chằm, dõi theocho đến khi nó nhập vào vô số ánh đèn khác ở điểm cuối, không còn phân rõ ai là ai, lúc này mới thôi nhìn theo mà dụi dụi hai mắt.
“Hòa đại ca, không ngờ tới huynh cũng ở chỗ này!” Một giọng nói hưng phấn vang lên từ phía sau, “Thật trùng hợp, huynh cũng tới thả đèn à!”
Hòa Yến xoay người liền thấy một thiếu niên môi hồng răng trắng đang ôm một đống đèn trong lòng ngực, hắn vô cùng vui vẻ nhanh chóng sải bước về phía nàng, đúng là Trình Lí Tố.
Xiêm y của hắn mới tinh sạch sẽ, khi đi đến bên người Hòa Yến thì thật cẩn thận nhấc góc áo lên sợ bị nước sống bắn đến, hắn lấy ra một chiếc đèn từ trong số đèn đang ôm trong ngực chia cho Hòa Yến.
Hòa Yến hỏi: “…… Đệ đây là muốn thả đèn sao?”
“Đúng vậy!”
“Vì sao lại nhiều như vậy?” Hòa Yến không còn lời gì để nói.
“Ta vốn dĩ không có nhiều đèn để thả như vậy, tổ tiên Trình gia ta cũng không biết rõ. Chỉ là ta nghĩ cữu cữu hôm nay sẽ không tới nên ta thay cữu ấy tới đây thả đèn, đây là cữu tổ mẫu của ta, đây là cữu tổ phụ, đây là……”
Hắn đếm từng cái đèn một, tuy nhiên lại không thấy có nửa phần ưu thương, ngược lại tinh thần hắn vui vẻ phấn chấn đến độ sợ là người ngoài nhìn vào sẽ tưởng hắn đang thả hoa đăng đêm Nguyên Tiêu chứ không phải đèn tế bái tết Trung Nguyên.
“Khoan đã,” Hòa Yến đánh gãy lời hắn, “Vì sao đệ phải thay cữu cữu thả đèn? Tự ngài ấy không thể tới sao?”
“Nhiều người như vậy cữu ấy nhất định sẽ không tới.” Trình Lí Tố thở dài, bộ dáng rầu thúi ruột, hắn lắc đầu nói: “Để ta thả đi thôi, ai bảo cữu ấy là cữu cữu của ta đâu.”
Hòa Yến nhìn hắn cảm thấy có chút buồn cười, nỗi buồn vì chuyện cũ vừa rồi vì thế mà bị hòa tan không ít. Đứa nhỏ Trình Lí Tố này tuy rằng đầu óc so với người bình thường như thiếu hai sợi gân nhưng đối với việc thả đèn tế bái này lại vẫn thập phần nghiêm túc. Hắn cẩn thận thắp lửa từng chiếc đèn một rồi trịnh trọng thả từng chiếc xuống nước, còn cực kỳ khẩn trương cầu cho đèn đừng bị gió thổi tắt, cũng đừng bị sóng đánh nghiêng, may mà tất cả đèn đều thuận lợi chầm chậm trôi về phía xa.
Trình Lí Tố thả xong chiếc đèn cuối cùng thì nhẹ nhàng thở ra, từ trong ngực áo móc ra một tấm vải thô lót lên tảng đá, lúc này mới ngồi xuống.
“Buổi tối ở Lương Châu Vệ còn tính là mát mẻ,” hắn lẩm bẩm nói, “Vài ngày trước đó nóng chết ta rồi, ta lớn đến chừng này còn chưa bao giờ trải qua mùa hè nào nóng nực như thế.”
Hòa Yến bật cười trong lòng, Trình Lí Tố lớn lên ở Sóc Kinh, ở Trình gia ngày hè tất nhiên sẽ có khối băng giải nhiệt, ngày ngày ngốc ở trong phủ, mưa không tới mặt nắng không tới đầu đương nhiên sinh hoạt sẽ không gian nan như ở Lương Châu Vệ. Nàng nói: “Một khi đã như vậy đệ hà tất lại đi theo cữu cữu tới Lương Châu chịu khổ?”
“Không còn cách nào khác,” Trình Lí Tố khoanh hai tay trước ngực, “Nếu không đi theo cữu cữu tới đây ta sẽ phải đính hôn.”
Hòa Yến sửng sốt: “Cái gì?”
“Nói cho huynh biết một bí mật, ta chạy tới đây là vì đào hôn đấy.” Trình Lí Tố quệt miệng, “Ta còn nhỏ, làm sao có thể đính hôn được chứ? Huống hồ ta lại không thích nàng ta, thế nên ta bỏ chạy.”
Hòa Yến: “……” Đứa nhỏ này thật đúng là thẳng như ruột ngựa, tuy nhiên điều khiến Hòa Yến ngạc nhiên hơn nữa chính là Tiêu Giác lại đồng ý dẫn theo Trình Lí Tố, hắn không sợ người Trình gia bất mãn với hắn sao, dù sao hắn cũng tự tiện dẫn đi tiểu thiếu gia nhà người ta, còn giúp tiểu thiếu gia đào hôn, cho dù có là thân thích thì trong lòng sợ là cũng sẽ có ít nhiều oán giận.
“Cảm tình của đệ và Tiêu Đô đốc, rất tốt nhỉ.” Hòa Yến châm chước nói.
“Cũng tạm,” Trình Lí Tố đắc ý cực kỳ: “Đều là do ta chủ động quấn lấy cữu ấy.”
Hòa Yến cảm thấy không thể tưởng tượng được, “Tính tình của cữu cữu đệ khó gần như vậy mà đệ còn chủ động nhào tới?” Ghê gớm, thật sự ghê gớm, ai dám nói Trình Lí Tố là “Phế vật công tử” chứ, khả năng nhẫn nhục chịu đựng bậc này không phải ai cũng có thể làm được.
“Cữu cữu của ta rất lợi hại, lúc còn nhỏ nếu không phải nhờ có cữu cữu thì nói không chừng đã không có ta hiện tại.”
Có lẽ vì ánh trăng đêm nay thật đẹp nên khi nói về chuyện cũ, Trình Lí Tố vậy mà cảm thấy hứng thú bừng bừng.
Mẫu thân của Trình Lí Tố, Trình phu nhân, thật ra kém mẫu thân Tiêu Giác chỉ vài tuổi. Vì thế khi Tiêu Giác sinh ra Trình phu nhân sớm đã xuất giá, mà Trình Lí Tố và Tiêu Giác tuy rằng kém bối phận nhưng tuổi không không chênh nhau quá xa.
Trình gia và Tiêu gia tuy rằng qua lại không tính là thường xuyên nhưng cũng tuyệt đối không phải là lãnh đạm, tuy nhiên khi còn nhỏ Trình Lí Tố lại không gặp qua Tiêu Giác mấy lần, phần lớn thời gian hắn chỉ nhìn thấy đại cữu cữu Tiêu Cảnh. Tiêu Trọng Võ có hai nhi tử, Tiêu đại công tử Tiêu Cảnh từ khi còn bé thân thể suy nhược, không thích hợp luyện võ, chờ sau khi dưỡng tốt thân mình thì cũng đã bỏ lỡ độ tuổi tập võ tốt nhất. Mà Tiêu phu nhân cũng hoàn toàn không hy vọng Tiêu Cảnh tòng quân thế nên Tiêu Cảnh liền đi theo con đường quan văn.
Sau khi Tiêu Giác được sinh ra Tiêu Trọng Võ lại phá lệ chú ý đến nhi tử này.
Tiêu Giác cũng không cô phụ sự kỳ vọng của Tiêu Trọng Võ, khi còn nhỏ đã bộc lộ thiên tư hơn người. Tiêu Trọng Võ đưa Tiêu Giác vào trong núi, được bốn vị ẩn sĩ tự mình dạy dỗ. Về phần là núi nào, các vị ẩn sĩ đó là ai Trình Lí Tố cũng không rõ lắm. Tóm lại quanh năm suốt tháng có khả năng chỉ nhìn thấy được một lần, thậm chí có năm một lần cũng không thấy được.
Khi Tiêu Giác mười bốn tuổi thì xuống núi trở lại Sóc Kinh, tiến vào Hiền Xương Quán, cùng học văn luyện võ với các con cháu huân quý trong kinh. Năm đó Trình Lí Tố chín tuổi, vào dịp tết Trung Thu khi ra ngoài du ngoạn với các bằng hữu thì bị mẹ mìn bắt đi. Ở tuổi này của hắn thì theo lý mà nói mẹ mìn sẽ ngại quá lớn, nhưng vẻ ngoài của hắn thật sự tú khí tinh xảo, như nhóc oa trên tranh Tết, mẹ mìn thấy thế liền bắt cóc hắn ra khỏi thành, Trình Lí Tố kêu trời không thấu kêu đất không thông, chỉ có thể co ro trong xe ngựa run bần bật.
Hắn tỉnh thì khóc, đói thì ăn chút gì đó sau đó mệt rồi lại ngủ, ngủ rồi tỉnh, tỉnh rồi ngủ, cũng không biết qua bao lâu, đột nhiên bên ngoài xe ngựa vang lên tiếng đánh nhau. Cổ xe không ngừng xóc nảy khiến mặt mũi hắn bầm dập cả, khi hắn la khóc om sòm thì cuối cùng xe cũng dừng lại.
Hắn vội vàng xốc mành xe ngựa lên bò ra ngoài, vừa ra tới liền thấy người chết nằm la liệt đầy đất, đều là một kiếm đứt cổ. Mẹ mìn bắt hắn đi cũng không phải chỉ một người mà là một nhóm tổng cộng mấy chục người, các tiểu hài tử bị bắt đều bị trói lại nhét trong xe ngựa, giờ phút này có nhóc bị rơi ra khỏi xe, có nhóc vẫn còn trong xe, một đám hài tử gào khóc không ngừng. Trong lúc hỗn loạn, Trình Lí Tố run rẩy bò ra ngoài, chưa bò được mấy bước hắn đụng phải một góc áo bào trắng như tuyết.
Hắn ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một thiếu niên tuấn mỹ mặc áo bào trắng, tóc buộc cao bằng phát quan bạc đang đứng trước người, tay cầm trường kiếm, lưỡi kiếm như sương tuyết đang không rừng rỏ máu tích táp xuống đất. Huyết sắc diễm lệ thế nhưng lại không bì kịp sắc môi của thiếu niên này, vẻ mặt hắn bình tĩnh, tầm mắt dừng trên người Trình Lí Tố.
Đây vốn là một quang cảnh rất đang sợ thế nhưng không hiểu vì sao Trình Lí Tố thế nhưng lại cảm thấy an tâm hơn một chút, hắn run rẩy rướn người tới ôm lấy chân thiếu niên, học theo điệu bộ nịnh nọt của mẫu thân khi nói chuyện với phu nhân của quan trên, “Dám, xin hỏi đại hiệp tên họ là chi, nhà ở phương nào, ta là tiểu thiếu gia của phủ Hữu Tư Thẳng Lang, người đã cứu ta, phủ ta nhất định sẽ trọng thưởng.”
Khóe miệng của thiếu niên giật giật, từ trên cao nhìn xuống, đôi mắt không hề có chút gợn sóng, lãnh đạm nói: “Ta là cữu cữu của ngươi.”
“Khi đó ta mới biết được, người chính là tiểu cửu cửu mà ta mãi không được gặp.” Trình Lí Tố chống cằm nhìn ánh trăng, “Lúc ấy ta liền nghĩ, vị tiểu cữu cữu này, thật là, thật là lợi hại.”
Tiêu Giác cứu hắn đồng thời cũng cứu luôn các hài tử khác cũng bị mẹ mìn bắt đi. Trình Lí Tố cảm thấy có một người cữu cữu như vậy thì như có chung vinh dự, vì thế liền muốn dán theo hắn. Thế nhưng Tiêu Giác lại có vẻ không quá thích người cháu này, sau khi đưa hắn về Trình gia thì chẳng ghé thăm hắn lần nào . Trình Lí Tố gửi thiếp cho hắn mời hắn tới trong phủ làm khách hắn cũng chẳng tới lấy một lần. Ngoài ra Tiêu Giác cũng rất bận thế nên Trình Lí Tố kỳ thật chẳng nhìn thấy Tiêu Giác được mấy lần.
Hòa Yến nghĩ đến hình ảnh mà Trình Lí Tố miêu tả thì liền muốn bật cười. Nghĩ đến Tiêu Giác có một nhóc cháu đằng ngoại như vậy cũng thật là bất đắc dĩ.
“Vậy về sau hai người làm sao lại trở nên thân cận?” Hoà Yến hỏi.
Nếu chỉ là một lần cứu mạng đó, thì theo như lời Trình Lí Tố, vẫn chưa tạo ra cải thiện gì đáng kể cho mối quan hệ của bọn họ, thế nên tất nhiên sau đó nhất định đã xảy ra chuyện gì, nên đôi cậu cháu này hiện tại mới cùng đến Lương Châu Vệ.
“Thật ra Trình gia chúng ta, bao gồm cả nương của ta, cùng với các bằng hữu, thân thích khác của Tiêu gia đều không quá thích cữu cữu.” Trình Lí Tố nói: “Bọn họ thích đại cữu cữu hơn.”
Hai vị công tử Tiêu gia đều ưu tú, là nhân tài Đại Nguỵ ngàn dặm mới tìm được một, Tiêu đại công tử Tiêu Cảnh cũng có vẻ ngoài rất xuất chúng, công tử như ngọc, khiêm tốn chính trực, chỉ riêng phương diện tính cách mà nói thì giao tiếp với Tiêu Cảnh tất nhiên sẽ thoải mái hơn, nhưng cũng không đến mức vì thế mà lại không thích Tiêu Giác.
“Vì sao?” Hòa Yến liền hỏi, “Tiêu Đô đốc không phải đã cứu đệ một mạng sao? Không nói đến quan hệ thân thích, chỉ tính là đối với ân nhân cứu mạng thôi nương đệ nhất định cũng sẽ không có không thích ngài ấy chứ hả.”
“Theo lý thì đúng là như thế, thế nhưng thời gian cữu cữu gặp gỡ với thân thích như chúng ta thật sự quá ít, mọi người vì thế không hiểu về cữu ấy lắm.”
Trước năm mười bốn tuổi Tiêu Giác rất ít khi ở Sóc Kinh, sau khi mười bốn tuổi thì lại vào Hiền Xương Quán, đừng nói là bằng hữu thân thích, ngay cả Tiêu phu nhân cũng chẳng thân thiết bao nhiêu với đứa con trai này. Trình Lí Tố biết có rất nhiều lần khi Tiêu phu nhân trò chuyện với mẫu thân mình thì đều sầu não không biết nên ở chung với tiểu nhi tử này thế nào.
Vì không hiểu về một người nên tất nhiên khi nhìn người đó sẽ mang theo rất nhiều thành kiến. Tiêu Giác vốn tính tình lãnh đạm, không thích kết giao với người khác, so với ca ca ôn lãng như ngọc của mình thì sự tương phản càng thêm rõ ràng. Tuy nhiên giống như lời Hoà Yến nói, lúc này vẫn chưa đến mức là không thích, thật sự không thích là từ sau khi Tiêu Trọng Võ tử trận trong trận chiến Minh Thuỷ.
Sự ra đi đột ngột của Tiêu Trọng Võ là một đả kích cực lớn đối với Tiêu gia. Tiêu phu nhân cả đời thông thuận, chưa từng trải qua bất kỳ khó khăn nào, xem trượng phu là trời. Tiêu Trọng Võ mất giống như bầu trời của bà cũng sụp đổ , nhân lúc mọi người còn chưa phản ứng lại bà đã treo cổ tự sát đi theo phu quân, để lại hai nhi tử.
Hai vị công tử Tiêu gia, Tiêu Cảnh và Tiêu Giác cực kỳ bi ai thống khổ, thế nhưng Tiêu Giác một giọt nước mắt cũng không rơi. Sau khi phu thê Tiêu tướng quân được hạ táng, chuyện đầu tiên mà Tiêu Giác làm chính là lên điện Kim Loan trần tình, muốn nắm binh quyền Nam Phủ binh về tay.
Đầu thất của Tiêu phu nhân còn chưa qua hắn đã dẫn Nam Phủ binh đi bình định Nam Man chi loạn. Ngày đó Tiêu Trọng Võ bỏ mình cũng là trong lúc giao chiến với Nam Man, có người nói hắn là vì báo thù cho phụ thân, nhưng cũng có người nói hắn là gấp gáp lập công, tham cái lợi trước mắt. Bất luận là chuyện phụ thân tử trận hay chuyện mẫu thân tuẫn tình Tiêu Giác đều không biểu hiện quá mức khổ sở. Vì thế lạnh nhạt vô tình, vững tâm như thiết, những đánh giá này cứ thế bị khắc lên người hắn.
Kinh thành từ đó ít đi một Tiêu nhị công tử kim tôn ngọc quý, những người khác chỉ có thể thông qua vài lời ít ỏi truyền về từ chiến trường mới có thể biết được tình hình hiện tại của Tiêu Giác. Đồn rằng hắn thiếu niên sát tướng, người chết dưới kiếm hắn nhiều vô số kể, tàn nhẫn không niệm nhân tình.
“Huynh có từng nghe qua cái tên Triệu Nặc không?”
Hòa Yến cảm thấy rất quen tai nhưng không biết rốt cuộc đã nghe qua ở đâu nên lắc đầu nói: “Không biết.”
“Triệu Nặc là đích trưởng tử của đương kim Hộ Bộ Thượng Thư, từng nhậm chức Tiết độ sứ Kinh Châu.” Trình Lí Tố nói đến đây nét mặt dần ảm đạm, “Thực ra, việc Trình gia, cũng như các thân quyến, bằng hữu của Tiêu gia hiểu lầm cữu cữu đều bắt nguồn từ tên đó.”